Bệnh
Viện Vì Dân (BVVD) thành lập trên ba mươi năm nay bởi
Hội Phụ Nữ Phụng Sự Xã Hội (PNPSXH), Chủ Tịch Hội
là Bà Nguyễn Văn Thiệu, với sự trợ giúp của nhiều
cơ quan, đoàn thể thiện nguyện, các nhà hảo tâm trong
nước và ngoại quốc, các phái bộ quân sự đồng minh,
và nhất là phủ Tổng Thống (TT). Một đồng nghiệp sống
nhiều năm ở Pháp bảo chúng tôi viết về sự hình thành
của bệnh viện này. Vì thời gian đã qua lâu, chúng tôi
có thể bỏ sót một vài chi tiết hay bị lầm lẫn, độc
giả nào nhận thấy xin cho chúng tôi biết để chúng tôi
bổ túc hay đính chánh, chúng tôi xin đa tạ.
Khoảng
đầu năm 1969, Đại tá Võ Văn Cầm, Chánh Văn Phòng Phủ
Tổng Thống có mời tôi lên nói là Bà Nguyễn Văn Thiệu
muốn thành lập một bệnh viện tư làm việc thiện với
danh nghĩa Chủ Tịch Hội Phụ Nữ Phụng Sự Xã Hội, ông
bà Tổng Thống thấy tôi có kinh nghiệm trong việc thành
lập Bệnh Viện Trưng Vương cho Hội Bảo Trợ Gia Đình
Binh Sĩ năm 1967, nên muốn tôi tham gia vào việc này. Lúc
đó tôi đã giải ngũ được hơn một năm, có ý định
xin đi tu nghiệp để về gia nhập ban giảng huấn của
YKĐH Saigon. Tôi phân vân vì nghĩ là việc này sẽ kéo dài
nhiều năm, bắt đầu từ số không, sẽ gặp nhiều khó
khăn về đủ mọi phương diện và đòi hỏi rất nhiều
thì giờ, nếu làm đàng hoàng thì không còn thì giờ hành
nghề tư, và xong việc có khi bị thay thế, đó là thường
tình ở các nước chậm tiến! Nhưng tôi cũng có một ý
nghĩ khác là khi mới bước chân vào trường Đại Học
Y Khoa Hà Nội năm 1951, đến tập sự tại Bệnh Viện
Yersin (Phủ Gioãn) thấy dụng cụ giải phẫu, máy móc cũ
kỹ, thiếu thốn do Pháp để lại từ trước Đệ Nhị
Thế Chiến, tôi vẫn tâm niệm làm sao cho có được một
bệnh viện trang bị đầy đủ để các thầy thuốc làm
việc thoải mái, có cơ hội tiến về kỹ thuật, cứu
được bệnh nhân đến mức tối đa. Thêm vào đó khi còn
học PCB tại Khoa Học Đại Học Hà Nội tôi đã được
nghe một lời phê phán nghiêm khắc của một Giáo Sư
Pháp, GS P.L., về khả năng của người Việt như sau:
“Người Việt Nam chẳng làm được việc gì nên hồn
cả”, câu này đã in sâu vào tâm khảm tôi. Ngoài ra
BVVD sẽ giúp đỡ nhiều cho bệnh nhân nghèo, đó là ba
động cơ thúc đẩy tôi hy sinh thì giờ để nhận việc
này.
Một
Ủy Ban xây cất được thành lập gồm có:
- Đại Tá Võ Văn Cầm, Chánh Văn Phòng phủ T T, Chủ Tịch
- Ô. Nguyễn Đình Xướng, Tổng Thư Ký phủ T T, Ủy viên
- BS. Phạm Ngọc Tỏa, Bộ Y Tế, Ủy viên
- Kiến Trúc Sư Nguyễn văn Chuyên, phủ T T, Ủy viên
Ủy
ban này thường họp vào buổi trưa hay sau giờ làm việc
công sở, tổ chức các buổi hội họp với các bộ Y Tế,
Công Chánh và các ban Giám Đốc các bệnh viện tư Saigon,
Chợ Lớn (Triều Châu, Sùng Chính v.v…) để học hỏi
các kinh nghiệm của họ vào buổi tối. Riêng phần tôi
còn phải lo về lập quy chế của bệnh viện, lo trang bị
dụng cụ máy móc y khoa, vật dụng văn phòng, tổ chức
tiếp liệu, tuyển dụng nhân viên chuyên môn và hành
chánh. Tất cả khởi sự từ số không, trong thâm tâm tôi
nghĩ là không thể nào khánh thành đợt đầu kịp vào
tháng chín 1971 được, thời hạn này do phủ TT ấn định!
• Đặt
tên bệnh viện:
Ông
Nguyễn Đình Xướng đề nghị nên đặt tên là Bệnh
Viện Vì Dân. Phủ TT chấp thuận tên đó.
• Kiếm
địa điểm để xây cất:
Sau
mấy tháng tìm kiếm mới chọn được lô đất trống ở
đường Lý Thái Tổ cũ Chợ Lớn, gần mấy nhà Ủy Hội
Quốc Tế Đình Chiến ở, chủ đất là người Trung Hoa
vui lòng cho xử dụng một nửa, còn một nửa họ tính
xây khách sạn nếu giải tỏa được, và họ hứa sẽ
yểm trợ bệnh viện. Lô đất đó hình như dành để xây
cất một trường Đại Học Kinh Doanh và Thương mại thì
phải, nhưng vì chưa có ngân khoản nên chưa thực hiện
được. Thủ tục chưa làm xong, anh em Thương Phế Binh
chiếm đất xây nhà lên lô đất đó, đành phải tìm nơi
khác. Cũng may sau tìm được ở góc đường Lê Văn Duyệt
nối dài và đường Nguyễn Văn Thoại, gần Ngã Tư Bảy
Hiềàn, thuộc Gia Định một khu đất bị trưng dụng từ
lâu, hiện dùng làm Kho Đạn cho Sư Đoàn Dù, bom đạn
được chứa trong những hầm bê tông tường dầy một
thước, nóc cũng vậy. Lô đất thuộc quyền sở hữu của
nhà Chung. Sau khi được sự chấp thuận giải tỏa của
Bộ Quốc Phòng, phải điều đình với nhà Chung. Nhà
Chung bằng lòng bán cho Hội PNPSXH khu đất đó khoảng gần
2 mẫu tây với giá tượng trưng một đồng bạc. Có đất
rồi phải lo phá các hầm bê-tông bằng cách nổ mìn rồi
san bằng. Công tác này làm gãy chân vợ một quân nhân.
Người này được bồi thường thỏa đáng.
• Kiến
trúc sư vẽ kiểu:
Hội
PNPSXH mướn KTS Trần Đình Quyền, vừa tu nghiệp về xây
cất bệnh viện ở Hoa Kỳ về, để vẽ kiểu. Tôi phải
góp ý về một số chi tiết với KTS. Sau khi sơ đồ được
bà Chủ Tịch Hội chấp thuận thì nhà thầu xây cất
khởi công. Việc kiểm soát công trường xây cất là của
KTS Nguyễn Văn Chuyên. Sau này Đại Tá Võ Văn Cầm có yêu
cầu tôi lưu tâm cả về việc này nữa.
• Việc
gây quỹ xây cất và điều hành:
Hội
PNPSXH chỉ góp phần nhỏ thôi như thỉnh thoảng có tổ
chức chợ phiên chẳng hạn, như chợ phiên Đồng Tâm
v.v.. Các buổi tiếp tân tại phủ TT để gây quỹ xây
cất BVVD mới quyên được nhiều: như mời các nhà tài
phiệt gốc Hoa (các ông Trần Thành, Lý Long Thân v.v…),
mời các ngân hàng nhân dịp đầu năm. Riêng ngân hàng
Việt Nam Thương Tín đang xây cất trụ sở mới còn cho
thêm đá cẩm thạch nữa để trang trí bệnh viện. Ngoài
ra mỗi vé xi-nê lấy thêm mấy đồng cho BVVD. Trường đua
ngựa Phú Thọ thỉnh thoảng tổ chức một cuộc đua đặc
biệt để ủng hộ BVVD. Đông Phương Ngân Hàng ứng trước
từng đợt hai chục triệu để xây cất. Đồng bào cư
ngụ ở Nouvelle Calédonie về thăm Miền Nam cũng ủng hộ
một số tiền lớn (hình như là một triệu đồng thì
phải) v.v… Tóm lại việc gây quỹ thành công là nhờ ở
thế lực của phủ TT. Vì tiền có dư dả nên lúc đầu
chỉ định xây 5 tầng lầu cho Khu Điều Trị, sau xây
thành bảy tầng.
• Việc
trang bị bệnh viện:
Tôi
được ủy quyền đi gặp các cơ quan thiện nguyện, các
phái bộ quân sự đồng minh để xin viện trợ y cụ và
vật dụng. Đầu tiên tôi đến tiếp xúc với phái bộ
quân sự Hoa kỳ, tôi được một vị Thiếu Tướng Quân
Y tiếp đãi rất nhã nhặn, sau khi nghe tôi trình bày việc
xin yểm trợ cho BVVD, ông ta trả lời vấn đề viện trợ
ông không rành và kêu một vị Đại tá Hành Chánh Quân Y
ra tiếp tôi. Vị này hỏi tôi là định thiết lập một
bệnh viện mấy trăm giường, gồm những khoa nào, tôi
trả lời chúng tôi có kế hoạch làm một bệnh viện
toàn khoa 500 giường, ông bèn tham khảo cuốn sách về
bảng cấp số các quân y viện, rồi đưa cho tôi xem nhu
cầu trang bị một bệnh viện như vậy gồm có những thứ
gì, trong cuốn sách có ghi đầy đủ hết không thiếu một
thứ gì. Xong ông ta cho biết là rất tiếc hiện không có
chỉ thị nào cho cơ quan của ông viện trợ một bệnh
viện tư, nếu làm sai luật các thanh tra của Quốc Hội
Mỹ sẽ khiển trách cơ quan ông. Mới ra quân lần đầu
đã thất bại, tôi ra về lòng tràn ngập lo âu, thất
vọng, vì đồng minh lớn nhất và giàu có nhất từ chối
không giúp thì ít hi vọng nơi khác trợ giúp cho mình được
gì! Tôi báo cáo cho ĐT Cầm biết và khuyến cáo TT nên
biếu cho BVVD một trang bị có giá trị để cho các Mạnh
Thường Quân khác noi gương, như châm ngôn “mình tự
giúp mình, rồi Trời sẽ giúp mình” (Aide-toi le Ciel
t’aidera). Vài bữa sau ĐT Cầm cho tôi biết là TT hỏi
nên cho BVVD cái gì, tôi trả lời quý nhất là đồ trang
bị cho Khu Quang Tuyến X, vì trang bị này đắt tiền ít
người cho nếu có thì có khi là đồ cũ lỗi thời dễ
hư hỏng khó bảo trì không xứng đáng với một bệnh
viện tối tân. TT chấp thuận lời đề nghị này.
Với
các phái bộ đồng minh khác và các cơ quan thiện nguyện
thì cuộc vận động của tôi có kết quả như sau:
-
Phái bộ quân sự Úc và Tân Tây Lan: trang bị cho
hai phòng chữa răng và phòng thí nghiệm nha khoa với các
dụng cụ đều mới và nhập cảng từ Tây Đức.
-
Phái bộ quân sự Đại Hàn: bàn ghế mới cho khu
Hành Chánh, một xe Hồng Thập Tự kiểu mới, và toàn bộ
một nhà máy giặt cũ giao cho BVVD khi Sư đoàn của họ
rút khỏi Việt Nam (nhà máy này giặt quần áo cho quân
số một Sư Đoàn do ĐT Cầm điều dình xin được)
-
Trung Hoa Quốc gia (Đài Loan): một xe HTT mới
- Cơ
quan UNICEF: trang bị cho khu Nhi Khoa khoảng 100 giường
bệnh trẻ em, 20 lồng ấp (couveuses) cho trẻ sơ sinh thiếu
tháng, dụng cụ cho Nhi khoa và Sản Phụ Khoa.
-
Hội Việt Hoa Thân Hữu Hương Cảng: trang bị cho
phòng cấp cứu tim mạch gồm 4 máy điện tâm ký
(electrocardiographe) cho 4 giường bệnh, mỗi máy được nối
với một máy điện tâm ký trung ương đặt trong phòng y
tá trực ở phòng kế bên để theo dõi 4 bệnh nhân, khi
có một bệnh nhân trở bệnh nặng thì y tá trực làm
ngay điệân tâm đồ ở máy trung ương và kêu Bác sĩ
ngay.
-
Hãng Schimadzu (sản xuất máy quang tuyến X) và ngân hàng
Sumitomo: trang bị cho một phòng mổ đặc biệt có máy
quang tuyến X giúp Bác sĩ nhìn rõ chỗ phải chẩn đoán
qua màn truyền hình của máy quang tuyến X rồi mổ. Nếu
muốn chụp phim ngay lúc đó để lưu trữ cũng được.
Thật là tiện lợi và nhanh chóng cho các trường hợp
giải phẫãu chỉnh hình, hay mổ lấy đạn v.v…
-
Hãng Roussel Vietnam: trang bị cho phòng thí nghiệm máy
chụp quang phổ (spectrophotometre)v.v…
Tất
cả các tặng phẩm nhận được chúng tôi đều gắn danh
hiệu của quốc gia, cơ quan hay cá nhân đã tặng cho BVVD.
Một số vật dụng như dụng cụ vật lý trị liệu thì
BVVD bỏ tiền ra mua.
Riêng
việc trang bị Khu Quang Tuyến X (do TT tặng) định đặt
mua của hãng CGR Pháp rồi hãng Phillips Hòa Lan đều không
được, họ trả lời không đủ thời gian để giao hàng
trước tháng chín năm 1971 được, vì đơn đặt hàng của
hãng họ quá nhiều rồị. Thế là đầu 1971, ĐT Cầm cử
tôi đi Nhật với lời dặn phải làm sao mua cho bằng được
đồ trang bị cho Khu Quang tuyến X và ráp xong trước tháng
chín 1971, đúng là làm việc theo lối nhà binh (système D).
Tôi tiếp xúc với hãng Schimadzu là hãng sản xuất lớn
nhất máy móc quang tuyến X ở Nhật. Nhà máy tọa lạc ở
Osaka, khởi thủy chỉ là một nhà nhỏ lợp mái tranh,
thành lập một năm sau khi nhà bác học Đức Rontgen tìm
ra được tia X hồi cuối thế kỷ thứ 19. Bây giờ nhà
máy choán một diện tích lớn như một thành phố và sản
xuất cả nhiều bộ phận điện tử cho hãng Boeing Mỹ,
sản xuất máy quang tuyến chỉ chiếm một khu thôi. Sau
khi xem nhà máy, họ dẫn tôi gập vị Giám đốc kỹ thuật
để cho biết nhu cầu của BVVD, và sơ đồ của khu Quang
Tuyến X. Đại cương khu này có 4 phòng vây quanh một
trung tâm điều khiển máy móc, đó là nơi làm việc của
Bác sĩ và chuyên viên, tường của trung tâm này làm bằng
kính cản tia X để có thể nhìn sang các phòng khác, tường
của các phòng này bằng bê-tông dầy 25cm, đủ cản tia
X. Về máy móc thì dự trù như sau:
-
phòng số 1: một máy hoàn toàn tự động, có máy
truyền hình, chuyên viên điều khiển máy ngồi tại phòng
điều khiển và liên lạc với bệnh nhân qua một hệ
thống âm thanh, trong phòng này có máy truyền hình liên hệ
với máy quang tuyến X ở phòng số 1.
-
phòng số 2: trang bị một máy bán tự động, có
máy truyền hình
-
phòng số 3: trang bị một máy chụp X-quang cắt lớp
(tomographie)
-
phòng số 4: trang bị một máy chụp phổi phim nhỏ.
Sau
khi biết nhu cầu của BVVD, ông Giám Đốc Kỹ Thuật trả
lời ngay là vì có nhiều đơn đặt hàng quá từ trước
rồi, không thể giao hàng kịp thời hạn ấn định. Tôi
đã thất vọng, nhưng vẫn bình tĩnh cố níu kéo ông ta,
cho ông ta biết là BVVD là một bệnh viện làm việc
thiện, tối tân nhất Đông Nam Á, khi khánh thành sẽ có
mặt toàn thể ngoại giao đoàn, nếu ông cố gắng giúp
chúng tôi, đó là một dịp chúng tôi quảng cáo không
công cho hãng của ông, nhất là máy phòng số 1 là kiểu
mới nhất của loại này như ông nói, chúng tôi lại là
người đầu tiên đặt mua. Sau một lúc suy nghĩ ông ta
trả lời sẽ ráng thu xếp công việc, để ưu tiên cung
cấp cho BVVD kịp ngày khánh thành. Giá cả là 220.000 đô
la, phải đặt trước 20.000 đô la sau một tháng, hai tháng
sau sẽ nhận được hàng, kỹ sư sẽ tới ráp ngay khi
hàng tới. Thế là tôi yên tâm về Saigon.
Hãng
Schimadzu gửi ngay một kỹ sư đến BVVD xem vị trí xây
cất của khu Quang Tuyến X, lúc đó khu này đã xây cất
xong ở tầng 1 Khu Ngoại Chẩn. Mọi chi tiết đều được
cả, trừ một điểm là các máy sẽ được đặt lên một
tấm thép dầy mấy phân để cản tia X không đi xuống
tầng trệt, nên phải phá một khúc tường của tầng 1
để câu các tấm thép này lên.
Khi
các máy móc về đủ , hãng Schimadzu cử 3 kỹ sư tới làm
việc: một chuyên về máy phát tia X, một chuyên về điện
và một chuyên về máy truyền hình. Họ bắt tay ngay vào
việc ráp máy. Tôi gửi họ 3 chuyên viên về quang tuyến
X để phụ tá cho họ và nhờ họ huấn luyện luôn trong
lúc làm việc để những người này biết điều khiển
các máy sau khi ráp xong. Ngày 3/9/71 họ hoàn tất công việc
sau hai tháng trời làm việc cực nhọc. Ngày hôm sau là
ngày khánh thành BVVD đợt đầu (khu Ngoại Chẩn).
Sau
này hãng Schimadzu cho tôi biết tính ra còn dư 20.000 đô
la, xin tôi quyết định, tôi đề nghị cung cấp cho một
máy rửa phim tự động, còn dư tiền thì dùng hết vào
việc mua phim và các hóa chất xử dụng cho việc rửa
phim.
• Quy
chế và tuyển dụng nhân viên:
BVVD
là một bệnh viện tư thuộc Hội PNPSXH dành 25% sô’
giường cho bệnh nhân nghèo (gia đình tiểu công chức,
gia đình hạ sĩ quan và binh sĩ, gia đình nghèo có giấy
chứng nhận của khu phố) được giảm phí hay miễn phí
tùy trường hợp do sự cứu xét và quyết định của Ban
Xã Hội hàng ngày tới BVVD làm việc. Bệnh nhân nghèo
được săn sóc, ăn uống như bệnh nhân hạng trả tiền,
chỉ có khác là hưởng thuốc miễn phí do Bộ Y Tế hay
các tổ chức thiện nguyện cho và nằm phòng 4 giường.
Chủ
Tịch Hội Đồng Quản Trị (HDQT) là Chủ Tịch Hội
PNPSXH tức là bà Nguyễn Văn Thiệu, các thành viên của
HDQT đều là hội viên của Hội .
Giám
Đốc bệnh viện có hai Phụ tá: một Phụ tá Kỹ Thuật
(Bác sĩ Lê Phước Thiện) và một Phụ tá Hành Chánh
(Trung tá Hành chánh Quân Y Phạm văn Sinh).
Các
nhân viên chuyên môn như Bác sĩ , Dược sĩ, Nha sĩ, Nữ
Hộ Sinh, Chuyên Viên Gây Mê, Chuyên viên Quang Tuyến X,
Chuyên viên Phòng Thí Nghiệm, Y tá và Tá Viên Điều Dưỡng
trong giai đoạn đầu xin Bộ Y Tế và Cục Quân Y biệt
phái. Ngoài lương bổng do cơ quan gốc đài thọ, họ được
hưởng thêm một phụ cấp do Hội PNPSXH đài thọ. Các
Giáo Sư, Giảng Sư Đại Học Y khoa có thể gửi bệnh
nhân của mình tới nằm BVVD để điều trị dưới sự
săn sóc của họ.
Trong
thời kỳ đang xây cất, BVVD có nhờ Bộ Y Tế huấn luyện
cho một khóa Tá Viên Điều Dưỡng, chương trình một
năm, học viên là những cô nhi quả phụ quân nhân có
bằng Trung Học Đệ Nhất cấp, do BVVD tuyển dụng. Trong
tương lai BVVD sẽ thành lập một trường Cán Sự Điều
Dưỡng, chương trình học ba năm và tuyển dụng các cô
nhi, quả phụ quân nhân có bằng tú tài cho đi học để
làm nhân viên cốt cán cho bệnh viện. Tầng thứ bảy của
Khu Điều Trị sẽ xây cất nhiều phòng để làm lớp
học, và một thính đường lớn 500 chỗ dùng làm nơi hội
nghị. Trên nóc Khu này có bãi đáp trực thăng để nhận
bệnh nhân cần cấp cứu từ các nơi khác đưa tới, có
thang máy đưa ngay xuống phòng mổ hay khu cấp cứu ở các
tầng dưới.
Chúng
tôi phải tuyển dụng khoảng 400 nhân viên đủ các loại:
chuyên môn, hành chánh, y công, thợ thuyền v.v… (nếu
bệnh viện hoạt động với 400 giường thì trung bình mỗi
giường bệnh có một nhân viên). Sau khi họ đã được
xét là đủ tiêu chuẩn thì được nhận việc tạm thời,
đợi kết quả điều tra của An Ninh Quân Đội , nếu
không có hoạt động cho Việt Cộng thì được tuyển
dụng chính thức.
• Tiếp
liệu :
Vì
các nguồn cung cấp vật dụng, y cụ, thuốc men rất phức
tạp, đa nguyên, nên chúng tôi áp dụng kế toán sổ
sách, phiếu xuất nhập theo kiểu Hoa Kỳ như ở các đơn
vị Quân Y QLVNCH, để dễ kiểm soát bất thần, bất cứ
lúc nào cũng có thể biết rõ số lượng tồn kho, biết
rõ các nơi đã được phân phối của mỗi món hàng. Theo
hệ thống tiếp liệu này ngay từ đầu, việc quản trị
vật dụng không có khó khăn gì cả.
Riêng
về dược phòng phải làm 2 phòng riêng biệt:
1/
Phòng thuốc miễn phí: quản trị các
thuốc men do Bộ Y Tế, các cơ quan thiện nguyện cung cấp
để phát miễn phí cho các bệnh nhân nghèo.
2/
Phòng thuốc trả tiền: cho các bệnh nhân nằm
hạng trả tiền , thuốc do các Bác Sĩ Điều Trị kê toa
và các Hãng Bào Chế OPV, Trang Hai và Tenamyd cung cấp, nếu
các hãng này không đủ món nào thì BVVD có thể mua ở
ngoài theo giá thị trường. Đây là quyết định của
HĐQT. Đầu tiên chúng tôi có đề nghị cho đấu thầu
phòng thuốc thứ hai này, nhưng không được HĐQT chấp
thuận.
• Khánh
thành BVVD:
Ngày
4/9/1971 TT đến cắt băng khánh thành khu Ngoại Chẩn BVVD
do Hội PNPSXH mời. Quan khách có Ngoại Giao Đoàn, các Phái
Bộ Quân Sự Đồng Minh, các Tổng Bộ Trưởng, các vị
Đại Diện Hành Pháp, Lập Pháp và Tư Pháp, các cơ quan
thiện nguyện, các nhà hảo tâm, các thân hào nhân sĩ
v.v… Đại Sứ Mỹ Bunker cũng tới dự.
Bà
Chủ Tịch đọc diễn văn trình bày mục tiêu của BVVD,
diễn tiến việc thành lập xây cất bệnh viện và cảm
ơn các Phái Bộ Quân Sự Đồng Minh, các cơ quan thiện
nguyện, các nhà hảo tâm trong nước và ngoại quốc đã
giúp nhiều trong việc trang bị và xây cất BVVD, những
tặng phẩm như xe cộ vật dụng máy móc gì đều kể ra
hết, lẽ dĩ nhiên là không nói tới Phái Bộ Quân Sự
Hoa Kỳ vì không có tặng phẩm nào cả.
Khu
Ngoại Chẩn có hai tầng, hình chữ L, một phần chạy
song song với đường Lê Văn Duyệt nối dài, phần kia
song song với đường Nguyễn văn Thoại , Gia Định. Ngoài
một số phòng dùng để khám bệnh: Ngoại khoa, Nội khoa,
Sản Phụ khoa, Nhi khoa, Tai Mũi Họng, Nhãn khoa, Bệnh Tiêu
Hóa, Bệnh Phổi v. v., phòng phát thuốc, phòng băng bó, ở
tầng trệt còn phòng Vật Lý Trị Liệu, tiếp giáp vơi
Khu Cấp Cứu. Trên tầng 1 là khu Nha Khoa với hai phòng
khám và chữa răng, và phòng làm răng giả, kế bên là
Phòng Thí nghiệm của Bệnh Viện, tiếp theo là khu Quang
Tuyến X, rồi tới tám phòng mổ và phòng Hồi Sinh.
Sau
bài diễn văn của Bà Chủ Tịch , quan khách được hướng
dẫn đi thăm bệnh viện. Hôm đó quan khách đều chú ý
tới khu Quang Tuyến X, các máy móc đều do Kỹ sư Nhật
trình bày và cho chạy thử. Buổi tiếp tân kéo dài đến
quá trưa mới chấm dứt.
• Sau
khi khánh thành:
Khoảng
hơn hai giờ chiều, tôi đang ngồi nghỉ ở trong văn phòng
thì có hai người Mỹ của phái bộ viện trợ Hoa Kỳ
USAID xin gặp tôi. Một người là quan chức hành chánh và
một người là Thiếu Tướng Quân Y Hải Quân hồi hưu
tên là Iron. Hai người cho biết là nếu BVVD cần gì sẽ
viện trợ cho. Tôi bèn hỏi họ sao trước chúng tôi xin
viện trợ thì không được giúp. Họ trả lời bây giờ
tình thế đã thay đổi: Hiện nay Việt Nam Hóa chiến
tranh, Quân Đội Mỹ rút khỏi Việt Nam, nên có thể giúp
cho BVVD các dụng cụ của Quân Y Hoa Kỳ.
Chúng
tôi xin được vài chiếc xe vận tải để chuyên chở
vật dụng cho bệnh viện, mấy trăm giường bệnh đủ
trang bị cho mấy tầng lầu đang xây cất, các máy móc
dụng cụ trang bị đầy đủ cho một phòng thí nghiệm và
nhất là ba máy phát điện 250 KW để làm một nhà máy
điện nhỏ đủ cung cấp điện cho những nơi quan trọng
như các khu Cấp Cứu, Giải Phẫu, Hồi Sinh, Quang Tuyến X
và Thí Nghiệm khi điện thành phố bị cắt.
Chúng
tôi cho thực hiện ngay một phòng bảo trì để sơn phết
lại các giường bệnh và vật dụng nhận được, sơn
luôn cả phù hiệu hai bàn tay nắm chặt cùng với quốc
kỳ Mỹ-Việt như trên các hàng viện trợ Mỹ cho dân
chúng. Sau mỗi lần nhận hàng và tân trang lại thì sắp
đặt vào các nơi sẽ xử dụng, chúng tôi mời B.S. Iron
lại xem để ông biết là hàng không bị thất thoát.
Sau
này B.S. Iron tín nhiệm BVVD, cho luôn cả những vật dụng
dành cho bệnh viện thực tập tương lai của Y Khoa Đại
Học, vì chờ mãi không có ngân khoản để xây cất bệnh
viện này! Ngoài ra BVVD có xuất tiền ra mua một số
giường có máy điện tự động thay đổi tư thế nằm
cho bệnh nhân để trang bị cho một số phòng một giường.
Bệnh viện chỉ có ba loại phòng: hạng một giường,
hạng hai giường và hạng bốn giường.
•
Nhận bệnh nằm điều trị :
Khi
đã có tạm đủ đồ trang bị và xây cất gần xong,
chúng tôi bắt đầu nhận bệnh nhân nằm điều trị.
Trước đó chúng tôi xin Cục Quân Y biệt phái cho một số
bác sĩ chuyên môn làm nòng cốt. Các vị này thường quá
15 năm quân vụ, nhưng vì chiến tranh triền miên họ chưa
được giải ngũ. Danh sách dưới đây có thể thiếu sót
vì đã trên ba mươi năm rồi, xin lỗi đồng nghiệp nào
mà chúng tôi quên không ghi tên:
Y Sĩ
Đại Tá Lưu Thế Tế, chuyên khoa tim mạch
Y Sĩ
Đại Tá Nguyễn Quang Huấn, giải phẫu ung thư, thường
trú ở ngay trong BVVD
Y Sĩ
Trung Tá Lê Thế Linh, giải phẫu chỉnh hình
Y Sĩ
Trung Tá Trịnh Cao Hải, giải phẫu chỉnh hình
Y Sĩ
Trung Tá Phạm Hữu Phước, giải phẫu thần kinh
Y Sĩ
Trung Tá Trần văn Khoan, giải phẫu tổng quát
Y Sĩ
Trung Tá Hồ Hữu Hưng , nhãn khoa
Y Sĩ
Trung Tá Nguyễn Thế Huy, Tai Mũi Họng
Y Sĩ
Trung Tá Vũ Ban, Quang Tuyến X
Các
vị trên đây có nhiều kinh nghiệm chuyên môn và từng đã
đi tu nghiệp tại Hoa Kỳ, ngoài ra một số bác sĩ
vẫn làm việc trong ngành Quân Y nhưng giúp BVVD ngoài giờ
làm việc như các B.S. Cao Xuân An (bệnh lý học), B.S. Đặng
Như Tây (Vi Trùng Học), B.S. Bạch Toàn Vinh (Vi Trùng Học),
Ngô Tôn Liên (Gây Mê , Hồi Sức)
Bộ
Y Tế biệt phái cho BVVD:
B.S.
Phạm Ngọc Tỏa, Giám Đốc, Sản Phu. Khoa, năm 1972 có đi
tu nghiệp tại Singapore về giải phẫu triệt sản qua âm
đạo (sterilisation par voie culdoscopique) do Ford Foundation tổ
chức, mang về cho BVVD một bộ đồ giải phẫu theo thủ
thuật này, do Ford Foundation tặng.
Nha
Sĩ : Bà Nguyễn đình Hiệu, Nha Sĩ : Cô Võ Kim Văn.
Các
đồng nghiệp trong Ban Giảng Huấn của Y Khoa Đại Học
Saigon cộng tác với BVVD có:
G.S.
Trần Kiêm Thục , Bệnh Tiêu Hóa
G.S.
Trần Hữu Chí, Bệnh Phổi
G.S.
Bùi Thị Nga, Nhi Khoa
G.S.
Nguyễn Bích Tuyết, Sản Phụ Khoa
G.S.
Vũ Thiện Phương, Sản Phụ Khoa
G.S.
Trương Minh Ký, Tai Mũi Họng
BVVD
có tuyển dụng:
B.S.
Nguyễn Xuân Xương, Nội Khoa và tim mạch
Bà
Nguyễn Gia Kiểng, B.S chuyên về Huyết học mới ở Pháp
về
Dược
sĩ Nguyễn Thị Dung, coi Dược Phòng
Dược
sĩ Tôn Nữ Duy Thạnh, Phòng Thí Nghiệm (Hóa Học)
Ngoài
ra còn một số quân y sĩ chuyên làm việc trực ngoài giờ
làm việc của công sở.
Tóm
lại có gần ba chục Y Nha Dược sĩ tham gia vào việc
điều hành chuyên môn trong giai đoạn đầu.
Các
y công được huấn luyện xử dụng máy móc lau chùi nhà
cửa luôn luôn sạch sẽ chẳng kém gì các bệnh viện
ngoại quốc. Hồi đó Việt Cộng thường kiểm soát các
khu rừng ở miền Nam, sách nhiễu các người khai thác nên
gỗ rất đắt, do đó tất cả các cửa đều làm bằng
alumimium nhập cảng từ bên Nhật, vừa đẹp, vừa bền
lại dễ bảo trì.
Vấn
đề thực phẩm cho bệnh nhân lúc đầu do chủ nhân nhà
hàng Đồng Khánh ở Chợ Lớn và Lê Lai ở Saigon cung cấp.
Tôi thấy thức ăn phẩm lượng rất kém, lại không hợp
vệ sinh, nên đề nghị HĐQT tìm nhà cung cấp khác vì
thực phẩm bổ túc cho việc điều trị và cần cho việc
phục hồi sức khỏe của bệnh nhân. HĐQT đồng ý, bèn
cử hội viên ra đảm nhiệm việc nấu ăn cho bệnh nhân,
nên sau này thức ăn rất tinh khiết ngon lành.
Trong
giai doạn đầu khi các giường bệnh hạng trả tiền chưa
choán hết, lại cho miễn phí, giảm phí rất nhiều, để
giữ cho bệnh viện ở mức độ cao việc bảo trì rất
tốn kém, đó là nguyên nhân lỗ vốn của giai đoạn này.
Một
vài thân chủ đặc biệt là: vợ một Tham vụ Ngoại
giao Mỹ nhờ một Bác Sĩ Quân Y Mỹ đỡ đẻ tại BVVD,
trả giá đặc biệt; con Bà Chủ tịch HĐQT mổ cesarienne
ở BVVD, khi ra về Bà Chủ Tịch tặng cho Quỹ Xã Hội một
số tiền rất lớn; hãng Air America nhờ BVVD săn sóc sức
khỏe cho nhân viên của hãng.
• Vài
sự kiện đáng ghi nhớ:
1/
Trường Y Khoa Đại Học Minh Đức muốn xin HĐQT cho sinh
viên đến tập sự HĐQT hỏi ý kiến chúng tôi, chúng
tôi trình bày muốn thu hút nhiều bệnh nhân hạng trả
tiền để quân bình ngân sách nên tránh thâu nhận sinh
viên y đến tập sự. Sau này nên mở các lớp chuyên khoa
cho các Bác sĩ đã ra trường, muốn theo chương trình
thường trú (resident) dự trù sẽ được tổ chức tại
BVVD với sự cộng tác của các trường Đại Học Âu Mỹ.
BVVD đã dự trù xây cất các phòng ở cho các B.S. thường
trú tương lai. Như vậy họ vừa được huấn luyện tại
chỗ các chuyên khoa, sau rồi ở lại làm việc tại VN, đỡ
thất thoát chất xám. Ngược lại các trường Y khoa Đại
Học ngoại quốc có dịp cử Giáo Sư đến VN dạy học,
có thể nghiên cứu thêm bệnh lý đặc biệt của người
Việt. Đề nghị này đươc chấp thuận.
2/
Có một phái đoàn Bác Sĩ Mỹ sang VN để giải phẫu tim
(hình như là thuộc trường Đại Học Loma Linda thì phải)
cho bệnh nhân VN. Xong việc họ mới biết Saigon có BVVD,
họ đến thăm và không ngờ có một cơ sở tốt như vậy.
Họ hứa lần sau sẽ đến mổ tại BVVD, rồi để lại
cho bệnh viện các dụng cụ giải phẫu tim
3/
Trong đầu thập niên 70 Pháp tái lập bang giao với VN,
muốn tân trang lại BV Grall, cử một phái đoàn của bộ
Y Tế Pha’p trong đó có một Giáo Sư Đại Học Y Khoa,
một ky õsư Bách Khoa. Ông Giám Đốc BV Grall điện thoại
cho tôi xin phép cho phái đoàn đến thăm BVVD. Tôi dẫn họ
xem các phòng ốc, đồ trang bị và trình bày diễn tiến
của việc thành lập BVVD. Khi ra về họ nói không ngờ
trong nước còn đang có chiến tranh mà đã làm được một
cơ sở quá tốt như thế này.
4/
Khoảng năm 1973 bà Chủ Tịch HDQT có hỏi tôi: BVVD nên có
một cái gì khác các bệnh viện khác. Tôi trả lời quý
bà là Hội PNPSXH thì nên giúp cho phụ nữ VN, mà phụ nữ
thì hay bị ung thư, hiện nay Viện Ung Thư Quốc Gia được
Cơ Quan Y Tế Quốc Tế (OMS) viện trợ cho một bom Cobalt
để trị liệu, nhưng không có ngân khoản để xây cất
chỗ chứa và cơ sở tiếp bệnh nhân. Nếu bây giờ mình
có khả năng xây cất nhanh chóng thì nên mở thêm khu điều
trị ung thư. Đúng vào thời điểm đó một Bác Sĩ kiêm
Kiến Trúc Sư chuyên về xây cất bệnh viện, làm việc
cho OMS, lại thăm BVVD thấy còn nhiều đất trống, ông ta
hỏi sao không xử dụng bỏ phí quá. Tôi có kể lại với
ông là đang dự trù làm cơ sở dùng bom Cobalt trị liệu
ung thư. Ông ta sốt sắng xung phong vẽ kiểu cho và hứa
sẽ tìm người viện trợ trái bom này. Ít lâu sau tôi rời
khỏi BVVD, nghe đâu ông ta đã vận động xin Hoàng Gia Đan
Mạch viện trợ cho thì phải.
Khoảng
tháng mười 1974 ĐT Cầm nói với tôi Ủy Ban Xây Cất
chấm dứt nhiệm vụ vì việc xây cất đã xong. Tôi nghĩ
mình làm việc gần năm năm rồi từ trước khi kiếm được
địa điểm xây cất, nay đã hoàn thành việc tổ chức,
trang bị và điều hành giai đoạn đầu, mỗi ngày làm
việc trung bình 9, 10 giờ, nên tôi đệ đơn xin trở về
Bộ Y Tế. Tôi phải chờ hơn hai tháng, đến 31/12/1974
HĐQT mới tìm được người thay thế: đó là Giáo Sư
Đặng Văn Chiếu, cựu Khoa Trưởng Y Khoa Đại Học
Saigon. Có sự thay đổi trong Sơ Đồ Tổ Chức BVVD: Dược
Sĩ Nguyễn Thị Hai được Hội PNPSXH cử ra làm Giám Đốc
BVVD, G.S. Đặng Văn Chiếu làm Giám Đốc Kỹ Thuật và
Dược Sĩ Nguyễn Tiến Đức, có bằng Cao Học Y Tế Công
Cộng Mỹ (MPH), làm Giám Đốc Hành Chánh.
Ngày
21/4/1975 TT Nguyễn Văn Thiệu trao quyền cho Phó TT Trần
văn Hương. Ngày 22/4/1975 bà Nguyễn Văn Thiệu trao BVVD cho
Bộ Y Tế. Ngày 30/4/1975 Cộng Sản cưỡng chiếm Saigon,
BVVD được chúng đổi tên là Bệnh Viện Thống Nhất
(BVTN). Như vậy danh hiệu BVVD sống được 3 năm 7 tháng
26 ngày tính từ ngày khánh thành đến 30/4/1975, trong thời
gian đó tôi phục vụ được 3 năm 3 tháng.
• Vài
hàng về BVTN:
Khi
tiếp thu, theo lời các nhân viên cấp nhỏ còn được ở
lại làm việc, thì CS vào ở bừa bãi trong bệnh viện,
thấy phòng Thí Nghiệm luôn luôn cho chạy máy điều hòa
không khí, họ chỉ trích tư bản phung phí tiền của
nhân dân, họ đâu có biết trong đó có nhiều máy móc
điện tử cần lúc nào cũng phải điều hòa không khí.
Họ lạm dụng thang máy, những thang máy để chuyên chở
một giường bệnh lớn hay hơn 10 người, họ xử dụng
bừa bãi. Cuối tháng tiền điện tăng lên quá cao, họ
la lối có địch phá hoại, phải điều tra! Thật là
“Ngọc để Ngâu vầy”, không biết vật dụng có mất
mát gì không hoặc có bảo trì đúng mức không ! Có một
đồng nghiệp nghe người nhà cũng ở trong ngành y ở lại
làm việc ở miền Bắc kể lại trong thời chiến miền
Bắc có được một nước bạn Đông Âu viện trợ cho
toàn bộ đồ trang bị một bệnh viện nhỏ, sau vài tháng
đến thăm vật dụng bị mất cắp gần hết!
Sau
30/04/1975 trong vài tháng đầu, để mị dân BVTN nhận tất
cả mọi người vào nằm điều trị. Được vài tháng,
họ tuyên bố BVTN chỉ thâu nhận đảng viên và cán bộ
cao cấp, cán bộ trung cấp thì được nằm ở BV Trưng
Vương, còn nhân dân thì nằm BV Bình Dân. Thật là phân
chia giai cấp rõ ràng, đến nỗi một cán bộ nhỏ không
được nằm BVTN phải than rằng: “Thời Thiệu Kỳ ai
muốn nằm BVVD cũng được, bây giờ BVTN chỉ dành cho mấy
ông lớn!”. Thê’ mới biết: BVVD thì lo điều trị cho
Dân, còn BVTN chỉ lo phục vụ cho Đảng!”
Sau
mấy tuần họ tưởng là đã học hết công việc điều
hành của bệnh viện rồi , nên họ chỉ giữ lại các y
công, còn thuyên chuyển đi nơi khác tất cả các nhân
viên trung cấp như một số y tá phải đổi lên nhà
thương điên Biên Hòa, trong số đó có một nữ chuyên
viên Gây Mê Hồi Sức rất giỏi ! Vì họ chú trọng
“Hồng hơn chuyên”, nên chính những cán bộ cao cấp
nằm điều trị tại BVTN, tuy nằm ở đó, mà không tin
tưởng vào B.S. của họ, nên vẫn tìm B.S. “ngụy” để
chữa trị!
Kết
luận :
Trong
thời Đệ Nhị Cộng Hòa, chiến cuộc gia tăng mạnh mẽ,
BVVD ra đời nhờ sự cố gắng của trong nước và sự
yểm trợ của các nước đồng minh, các cơ quan thiện
nguyện và các vị hảo tâm trong và ngoài nước để bù
đắp một phần nào sự thiếu thốn một hệ thống An
Sinh Xã Hội (Securité Sociale). Ở thời điểm đó BVVD
tương đối đầy đủ nhưng chưa thể so sánh được với
các bệnh viện tối tân hiện đại của các nước Âu Mỹ
ngày nay. Riêng phần tôi vì muốn làm việc xã hội mà
không làm chính trị và muốn thực hiện những gì mình
ấp ủ từ lâu nên đã nắm lấy cơ hội để thử sức
mình. Kết quả: mang tiếng chạy theo chế độ và mất
hết thân chủ phòng mạch tư, nên bị bà xã trách móc
cho đến tận bây giờ!!!
2 comments:
Bà Nha sĩ làm việc cho Phòng Nha Khoa BV Vì Dân là Nha Y Sĩ Võ kim Văn chứ không là Võ thị Văn.
Bà Văn hiện định cư tại Fresno, California USA
Tên Nha Sĩ Võ Kim Văn đã được sửa lại cho chính xác. Xin cám ơn ông Gia Lộc đã gửi chi tiết này.
Post a Comment